Những nghiên cứu mới về xét nghiệm ung thư vú hiện đại

Những đột phá trong nghiên cứu xét nghiệm ung thư vú hiện đại


Bạn có biết rằng các trường hợp đầu tiên được ghi ung thư vú đã được thực hiện hơn 3.500 năm trước? Bạn cũng có thể ngạc nhiên khi biết Hippocrates, cha đẻ của Tây y, xem bệnh này. Trong danh dự của nhận thức ung thư vú Tháng năm này, chúng tôi muốn có một cái nhìn lại một số thứ quan trọng nhất đã được thực hiện trong lịch sử nghiên cứu bệnh xét nghiệm ung thư vú hiện đại.





Những khám phá sớm nhất về xét nghiệm ung thư vú hiện đại


Các mô tả sớm nhất của bất kỳ loại ung thư có thể được tìm thấy trên các Edwin Smith Papyrus. Tạo tác Ai Cập này ngày trở lại vào năm 1600 TCN và mô tả 8 trường hợp của các khối u vú ở một số chi tiết. Các giấy cói cho thấy làm thế nào những bệnh đã được điều trị với chửa bịnh (nhiệt) vào thời điểm đó.

Hơn một ngàn năm sau đó, Hippocrates đã chọn để mô tả xét nghiệm ung thư vú hiện đại là một bệnh miễn dịch dịch thể, kết quả từ một sự dư thừa của mật đen trong cơ thể. Lý thuyết hiện nay mất uy tín này sẽ được củng cố bởi sự xuất hiện cháy đen của một khối u vú không được điều trị. Trong thực tế, các khối u cuối cùng có thể sản xuất ra một loại mật đen sẽ thấm qua da của bệnh nhân.

Những đột phá Trong thời kỳ Phục hưng về xét nghiệm ung thư vú


Các bác sĩ phẫu thuật đầu tiên để cố gắng loại bỏ các mô vú, các hạch bạch huyết, và cơ tiềm ẩn là một người Pháp tên là Jean Louis Petit trong 1674. Một thời gian ngắn sau đó, một bác sĩ phẫu thuật người Scotland tên là Benjamin Bell cũng đã thử nghiệm với các thủ tục để điều trị bệnh nhân có khối u vú.

Trong năm 1680, một bác sĩ người Pháp tên là Francois de la Boe Sylvius lên án lý thuyết lâu nay của bệnh dịch dịch thể. Ông cho rằng ung thư là kết quả của một quá trình hóa học làm thay đổi chất lỏng bạch huyết từ axit để chát, chứ không phải là một sự dư thừa của Melan Chole (mật đen).

Trong năm 1757, các bác sĩ người Pháp Henri Le Dran nên phẫu thuật cắt bỏ khối u ung thư là một cách tốt hơn để điều trị bệnh nhân ung thư vú. Ông cũng đề nghị bác sĩ phẫu thuật loại bỏ bất kỳ các hạch bạch huyết bị ảnh hưởng trong nách.

Post-Civil War Discoveries ở Mỹ
William Stewart Halsted đi tiên phong trong phẫu thuật triệt để ung thư vú đầu tiên trong năm 1882. Thủ tục biến dạng này sẽ vẫn là phương pháp chủ yếu để điều trị cho phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú trong gần một trăm năm.

Hiệp hội Ung thư Mỹ công bố Reach đột phá để chương trình phục hồi trong năm 1952. Không chỉ là chương trình này cực kỳ thành công trong việc nâng cao nhận thức về các phương pháp điều trị ung thư vú hiện nay, nhưng nó cũng giúp phát triển nhận thức cho tất cả các loại ung thư trên toàn quốc. 20 năm sau đó, nghiên cứu ung thư Mỹ tài trợ nhấn mạnh chụp nhũ ảnh là cách tốt nhất để chẩn đoán ở giai đoạn sớm bệnh ung thư vú.

Năm 1997, các nhà khoa học khám phá ra rằng sự hiện diện của các đột biến BRCA1 và BRCA2 trong các gen ức chế khối u chỉ ra rằng một người có nhiều khả năng phát triển ung thư vú. Đó là một bước đột phá lớn trong đó có nghĩa là bệnh nhân có nguy cơ cao có thể được xác định với một mức độ chính xác cao hơn.



Năm sau, FDA thực hiện một số bước để giúp chống lại bệnh ung thư vú. Đầu tiên họ được chấp thuận trastuzumab (Herceptin), một kháng thể đơn dòng mà mục tiêu bất kỳ tế bào overproducing các protein HER2, để điều trị xét nghiệm ung thư vú hiện đại di căn. FDA cũng đã phê duyệt HercepTest, một kit chẩn đoán rằng có thể được sử dụng để sàng lọc HER2 biểu hiện quá mức. Cuối cùng, Tamoxifen được phê duyệt nhờ vào kết quả tích cực báo cáo trong các thử nghiệm phòng chống.

Bài Millennial Những đột phá trong nghiên cứu xét nghiệm ung thư vú hiện đại


Số liệu công bố của Sáng kiến sức khỏe phụ nữ (WHI) nghiên cứu vào năm 2004 cho thấy rằng uống estrogen kết hợp với các hormone, progestin, làm tăng nguy cơ của một người mắc bệnh này. Các nghiên cứu tương tự cũng đã chứng minh rằng liệu pháp thay thế hormone estrogen một mình không giúp ngăn ngừa bệnh này hay bệnh ung thư đại trực tràng.

Tại San Antonio Breast Cancer Hội nghị chuyên đề trong năm 2005, các nhà nghiên cứu công bố các Oncotype DX, một bài kiểm tra hồ sơ 21-gen, cho phép bác sĩ ung bướu để xác định nhu cầu của bệnh nhân hóa trị liệu dựa trên rủi ro tổng thể của họ tái phát. Cùng năm đó, các nghiên cứu cho thấy chụp nhũ ảnh kỹ thuật số chính xác hơn chụp nhũ ảnh tiêu chuẩn khi sàng lọc những phụ nữ trẻ.
Viện Ung thư Quốc gia ra mắt thử nghiệm TAILORx vào năm 2006 để xem xét mô hình biểu hiện gen trong bệnh ở giai đoạn sớm và xác định xem họ có thể được sử dụng để phân biệt chính xác giữa các bệnh nhân, những người có nguy cơ cao hơn hoặc giảm nguy cơ tái phát. Những người thực hiện chạy các nguy cơ tái phát có thể được hưởng lợi từ trải qua hóa trị.

Năm 2010, FDA chấp thuận trastuzumab (Herceptin), một loại thuốc có thể được sử dụng kết hợp trong điều trị bổ trợ bệnh nhân giai đoạn đầu, bệnh HER2 biểu hiện tốt-node-dương. Cùng năm đó, các thử nghiệm lâm sàng bệnh ung thư vú cho thấy hiệu quả của một loại thuốc mới có nguồn gốc từ một miếng bọt biển biển, eribulin mesylate (Halaven). Đến cuối năm 2010, FDA đã phê duyệt eribulin để điều trị ung thư vú tiến triển mà đã kháng với các hình thức khác của liệu pháp.

Trong hai năm qua, các thế hệ tiếp theo mục tiêu của thuốc bằng tên của trastuzumab emtansine (T-DM1; Kadcyla) đã chứng tỏ khả năng của mình để kéo dài cuộc sống của bệnh nhân HER2 dương tính. Đây là những trường hợp mà không gặp bất kỳ thành công với phương pháp điều trị ung thư vú thường hơn. T-DM1 đã chính thức chấp thuận của FDA năm nay.

Như bạn có thể thấy, những bước đột phá ung thư vú đã được thực hiện chỉ trong một thập kỷ qua mà đã có tác động rất lớn, đặc biệt là khi nói đến việc giải quyết những bệnh nhân có bệnh HER2-psotive. Chúng tôi không biết những gì tương lai nắm giữ, nhưng các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu tiếp tục phá vỡ mặt đất mới, con đường đến một chữa bệnh được một chút rõ ràng hơn với mỗi bước mà chúng tôi đưa.